Description: C:\Users\USER\Downloads\20210419_033913_698295_nuoi-con-bang-sua-m.max-1800x1800.png

 

1. Tổng quan

Sữa mẹ là thức ăn lý tưởng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Sữa me cung cấp cho trẻ sơ sinh tất cả các dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển khoẻ mạnh của trẻ. Không chỉ là nguồn dinh dưỡng tiêu chuẩn, sữa mẹ còn mang lại nhiều lợi ích về sức khoẻ, kinh tế, xã hội…

2. Sữa mẹ được "sản xuất" như thế nào?

- Sữa mẹ được sản xuất tại các nang tuyến sữa. Trong thai kỳ, các nang tuyến sữa phát triển mạnh dưới tác dụng của các Hormon sinh dục, sẵn sàng cho nhiệm vụ sản xuất sữa sau sanh.

- Nếu cho bé bú đúng cách, động tác trẻ bú mẹ tạo nên xung động cảm giác từ núm vú, kích thích tuyến yên tiết ra hai Hormone là Prolactine và Oxytocin vào máu mẹ. Prolactine là Hormon quan trọng kích thích tế bào tuyến vú tạo sữa và ức chế rụng trứng. Oxytocine là Hormone có vai trò tống xuất tia sữa.

- Mẹ lo lắng, căng thẳng, đau đớn... sẽ làm cản trở phản xạ tạo ra prolactin và oxytocine, dẫn đến giảm lượng sữa.

3.Các thành phần có trong sữa mẹ

- Protein: Sữa mẹ có số lượng protein (đạm) ít hơn sữa động vật nhưng có đủ các loại Acid amin cần thiết với tỷ lệ cân đối và dễ hấp thu vì vậy rất phù hợp với chức năng đào thải khi thận của trẻ chưa trưởng thành. Bên cạnh đó, protein trong sữa mẹ chủ yếu là protein dạng lỏng hòa tan, còn gọi là protein sữa nên phù hợp với khả năng tiêu hóa và hấp thu của trẻ; còn protein trong sữa bò chủ yếu là casein (85%) nên khi vào dạ dày của trẻ nhỏ sẽ tạo thành các cục đông vón làm trẻ khó tiêu hóa và hấp thu, trẻ hay bị rối loạn tiêu hóa. Whey protein chứa các protein kháng khuẩn giúp trẻ có khả năng chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.

- Lipid: cấu trúc của lipid trong sữa mẹ có nhiều acid béo chuỗi dài không no dễ hấp thu và nhiều acid béo cần thiết như acid linoleic đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển hệ thần kinh, mắt và sự bền vững của mạch máu ở trẻ nhỏ. Hàm lượng lipid trong sữa mẹ cao, cung cấp khoảng một nửa năng lượng cho trẻ bú mẹ.

- Glucid: trong sữa mẹ chủ yếu là đường lactose. Một số lactose trong sữa mẹ vào ruột chuyển thành acid lactic giúp cho sự hấp thu canxi và muối khoáng.

- Vitamin: Sữa mẹ có nhiều vitamin A hơn sữa công thức, vì vậy trẻ bú sữa mẹ sẽ đề phòng được bệnh khô mắt. Các vitamin khác trong sữa mẹ cũng đủ cung cấp cho trẻ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ được ăn uống và nghỉ ngơi đầy đủ, ngoại trừ vitamin D là loại vitamin cơ thể tự tổng hợp khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

- Muối khoáng: Nguồn Canxi, sắt và kẽm trong sữa mẹ tuy ít hơn trong sữa công thức nhưng có hoạt tính cao, dễ hấp thu do vậy vẫn đáp ứng được nhu cầu của trẻ nên trẻ được nuôi bằng sữa mẹ đặc biệt là hoàn toàn trong 6 tháng đầu sẽ ít bị còi xương và thiếu máu do thiếu sắt hơn những trẻ được nuôi bằng sữa bò.

4.Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ

Nuôi con bằng sữa mẹ mang lại lợi ích về nhiều mặt cả mẹ và trẻ.

- Đối với trẻ: Sữa mẹ rất nhiều năng lượng, giúp trẻ dễ tiêu hoá, chứa nhiều kháng thể giúp phòng ngừa các nhiễm trùng hô hấp, tiêu hoá; giúp trẻ tống xuất phân su, cung cấp vitamin A, đề phòng được bệnh khô mắt. Một số nghiên cứu cho thấy, những trẻ được bú mẹ thường phát triển trí não tốt hơn, giảm nguy cơ thừa cân béo phì và mắc đái tháo đường khi trưởng thành.

- Đối với mẹ: Việc cho trẻ bú mẹ cũng giúp các sản phụ co hồi tử cung tốt hơn, giảm chảy máu sau sanh, chậm có kinh, nhanh chóng lấy lại vóc dáng sau sinh. Phụ nữ cho con bú mẹ cũng giảm nguy cơ ung thư vú, ung thư buồng trứng, giảm nguy cơ loãng xương. Đồng thời, nuôi con bằng sữa mẹ còn góp phần tăng tình cảm khắng khít mẹ và trẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự giáo dục trẻ về sau.

5.Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ đúng cách 

Tổ chức y tế thế giới khuyến cáo: 

- Trẻ bắt đầu bú mẹ ngay trong một giờ đầu sau sinh;

- Trẻ sơ sinh nên được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời để có được sức khoẻ và sự tăng trưởng tối ưu;

- Sau 6 tháng, trẻ sơ sinh cần được ăn dặm để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng của trẻ đồng thời với việc bú mẹ;

- Nuôi con bằng sữa mẹ nên được duy trì cho đến khi trẻ 2 tuổi hoặc lâu hơn;

- Việc nuôi con bằng sữa mẹ hiếm khi có chống chỉ định, trừ một số trường hợp trẻ bị rối loạn chuyển hoá Galactose, mẹ bị lao không điều trị;

- Trẻ phải được bú mẹ theo nhu cầu. Dung tích dạ dày trẻ sau sinh rất biến đổi:

+ Ngày thứ 1 khoảng 5-7 ml (như hòn bi)

+ Ngày thứ 3 khoảng 23 – 27 ml (như quả bóng bàn)

+ Ngày thứ 10 khoảng 60-81 mm (như quả trứng gà lớn).

Description: https://bvhungvuong.vn/upload/images/hinh%201-01.jpg

- Tư thế cho bé bú cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hành nuôi con bằng sữa mẹ. Tư thế cho bé bú đúng cần đảm bảo 4 nguyên tắc sau:

+ Cả mẹ và trẻ đều thoải mái.

+ Đầu và thân trẻ cùng nằm trên đường thẳng

+ Thân trẻ được nâng đỡ toàn bộ và nằm sát thân mẹ.

+ Mặt trẻ đối diện đầu vú, miệng trẻ đối diện núm vú.

- Dấu hiệu nhận biết bé bú đủ:

+ Bé bú đủ sẽ ngủ yên từ được từ 2-3 giờ.

+ Bé bú mẹ thường đi ngoài sau mỗi cử bú, có thể 3-4 lần/ ngày, phân hơi sệt, có màu vàng.

+ Theo dõi cân nặng bé sau sinh mỗi tháng, trẻ sẽ tăng dao động từ 500g đến 1000 gram.

 

 

 

21.NHỮNG HIỆN TƯỢNG LÂM SÀNG CỦA THỜI KỲ HẬU SẢN

1. Sự co hồi tử cung:

          Sau đẻ tử cung cao trên vệ khoảng 13cm, và trung bình mỗi ngày tử cung co hồi được 1cm, nên khoảng 12- 13 ngày sau đẻ không sờ được tử cung trên khớp vệ nữa. Sự co hồi tử cung phụ thuộc vào:

          - Đẻ con so tử cung co hồi nhanh hơn đẻ con dạ.

          - Tử cung đẻ thường co hồi nhanh hơn tử cung mổ đẻ.

          - Những người cho con bú tử cung co hồi nhanh hơn người không cho con bú.

          - Tử cung bị nhiễm khuẩn co hồi chậm hơn tử cung không bị nhiễm khuẩn.

Trên lâm sàng nếu tử cung co hồi chậm, sốt, ấn tử cung đau, sản dịch hôi, cần phải khám phát hiện nhiễm khuẩn tử cung để điều trị kịp thời.

2. Sản dịch:

          Là dịch từ trong đường sinh dục mà chủ yếu là từ buồng tử cung chảy ra ngoài trong những ngày đầu thời kì hậu sản.

          - Trong 3 ngày đầu sản dịch màu đỏ.

          - Ngày thứ tư đến ngày thứ 8 sản dịch màu lờ lờ máu cá.

          - Từ ngày thứ 8 trơ rddi sản dịch không có máu nữa mà chỉ là chất dịch trong.

Đặc điểm sản dịch có mùi tanh nồng. Nếu có nhiễm khuẩn sản dịch sẽ có mùi hôi hoặc có mủ. Số lượng sản dịch nhiều hay ít phụ thuộc vào từng sản phụ, nhưng thường nhiều trong 2 ngày đầu và ít dần cho đến ngày 15 sau đẻ thì hầu như không còn sản dịch nữa.

          Trên lâm sàng khoảng 18- 20 ngày sau đẻ có khi ra một ít máu qua đường âm đạo, đó có thể là kinh non, do niêm mạc tử cung phục hồi sớm. Nếu sản dịch ra nhiều, kéo dài cần phải theo dõi sót rau.

3. Sự xuống sữa:

Dưới tác dụng của Prolactin sưa được bài tiết. Trên lâm sàng ta thấy:

          - Ờ người đẻ con so xuống sữa vào ngày thứ 3, thứ tư sau đẻ.

          - Người đẻ con dạ xuỗng sữa vào ngày thứ 2, thứ 3 sau đẻ.

Trên lâm sàng ta thấy: Vú căng tức các tuyến sữa phát triển nhiều, to, các tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ, khó chịu, sốt nhẹ, T˚>38˚c, mạch nhanh, khi có sự xuống sữa thực sự thì các hiện tượng trên mất đi. Nếu đã xuống sưa mà vẫn sốt cần phải theo dõi nhiễm khuẩn ở tử cung, vú.

4. Các hiện tượng khác:

          - Cơn rét run sau đẻ: Cần phân biệt với cơn rét run do choáng mất máu là sau đẻ có rét run nhưng kiểm tra mạch, huyết áp vẫn bình thường.

          - Bí đái: do chuyển dạ kéo dài, ngôi thai đè vào bàng quang gây bí đái.

          - Các hiện tượng khác về toàn thân: Mạch chậm lại sau 5-6 ngày mới trở lại bình thường. Nhịp thở chậm và sâu hơn, trọng lượng cơ thể giảm sút từ 3- 5kg, do sự bài tiết mồ hôi, nước tiểu, sản dịch trong 10 ngày đầu.

5. Chăm sóc hậu sản thường:

5.1. Chăm sóc ngay sau đẻ: trong  2 giờ đầu ngay sau khi đẻ cần theo dõi tình trạng toàn thân của mẹ để phát hiện sớm tình trạng choáng sản khoa hoặc choáng mất máu. Theo dõi mạch, HA, xoa đáy tử cung qua thành bụng đẻ xác định khối an toàn của tử cung sau đẻ, đánh giá lượng máu chảy ra ngoài âm đạo 15 phút 1 lần, ít nhất trong thời gian 1 giờ sau đẻ.

          Cần phát hiện và xử trí kịp sớm đờ tử cung và chảy máu sau đẻ. Ngay sau khi đẻ, tử cung co chặt lại, đáy tử cung ở dưới rốn để tạo thành một khối an toàn tử cung. Nếu khám thấy mất khối an toàn, tử cung mềm, nhão hoặc tử cung to ra, đáy tử cung cao dần lên trên rốn là có máu đọng lại trong buồng tử cung. Cần đánh giá lượng máu sau đẻ. Nguyên nhân chảy máu sau đẻ có thể do sót rau, đờ tử cung hoặc chấn thương đường sinh dục. Máu có thể chảy ra ngoài qua âm đạo hoặc đọng lại trong buồng tử cung mà không chảy ra ngoài.

5.2 Chăm sóc về tinh thần: cuộc đẻ là một biến động lớn về giải phẫu và sinh lý của người phụ nữ, cũng là một biến động về tình cảm, cuộc sống của người phụ nữ. nhất là cuộc đẻ không theo ý muốn của người mẹ. Vì vậy, chăm sóc hậu sản cần phải được quan tâm một cách chu đáo về mọi mặt.

          Động viên giải thích cho sản phụ yên tâm, không bận tâm lo lắng sau cuộc đẻ, đặc biệt là những cuộc đẻ không phù hợp với ý muốn của con người.

5.3. Đảm bảo những điều kiện vệ sinh tốt cho sản phụ:

          Buồng điều trị phải sạch sẽ, yên tĩnh, thoáng mát phù hợp với từng mùa, phải có buồng điều trị cách ly cho những sản phụ bị các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh truyền nhiễm, để tránh sự lây chéo giữa các sản phụ.

5.4. Theo dõi sát tình trạng toàn thân của sản phụ ngay từ những phút đầu sau đẻ:

          Theo dõi sát mạch, HA, đặc biệt trong vòng 6h đầu sau đẻ để phát hiện tình trạng chảy máu để phát hiện kịp thời, tránh để diễn biến xấu cho sản phụ. Nói chung trong vòng 24h đầu phải đặc biệt chú ý theo dõi sự chảy máu, những ngày sau cần chú ý tới mạch, nhiệt độ để kịp thời phát hiện những nhiễm khuẩn sớm.

5.5. Theo dõi sự co hồi tử cung:

Hàng ngày sờ nắn đo chiều cao tử cung trên khớp vệ để đánh giá

          - Sự co hồi tử cung tốt hay xấu.

          - Mật độ tử cung chắc hay mềm.

          - Tử cung đau hay không đau khi sờ nắn.

Nếu tử cung co hồi chậm, mật độ mềm, ấn đau là tử cung bị nhiễm khuẩn cần phải điều trị sớm.

5.6. Theo dõi sản dịch:

Hàng ngày theo dõi sản dịch bằng cách xem khố của sản dịch để đánh giá.

          - Số lượng nhiều hay ít hoặc không có sản dịch ( bế sản dịch)

          - Màu sắc: Đỏ trong 3 ngày đầu, ngày thứ tư đến ngày thứ 8 lờ lờ máu cá, sau đó hết máu mà chỉ có một chất dịch, đến ngày thứ 15 trở đi hầu như hết sản dịch.

          - Mùi sản dịch không hôi , nếu hôi là có sự nhiễm khuẩn ở tử cung.

5.7. Phải làm thuốc tầng sinh môn và vùng âm hộ hàng ngày bằng cách:

          Rửa sạch vùng âm hộ, tầng sinh môn bằng nước chín, lau khô, đóng khố vô trùng. Tránh thụt rửa âm đạo vì làm như vậy cổ tử cung những ngày đầu sau đẻ chưa đóng, nước sẽ qua cổ tử cung vào tử cung gây ra nhiễm khuẩn ngược dòng từ ngoài vào.

5.8. Theo dõi đại, tiểu tiện:

          Sau đẻ sản phụ thường bí đại, tiểu tiện do tình trạng liệt ruột hoặc giảm nhu động ruột, liệt cơ bàng quang. Nếu sau đẻ 12h mà sản phụ không tự đái được mặc dù đã điều trị nội khoa như: xoa vùng bàng quang, chườm nóng, châm cứu thì phải thông bàng quang, sau đó bơm vào bàng quang 5- 10ml dung dịch Glycerin borat 5% để nhằm kích thích sự co bóp của bàng quang.Nếu sản phụ táo bón cần cho thuốc nhuận tràng: dầu Parafin 20g. Để tránh táo bón nên khuyên sản phụ vận động sớm. Sau 3 ngày không đi ngoài, phải thụt tháo phân cho sản phụ.

5.9 Chăm sóc vú:

          Luôn luôn giữ cho đầu vú, vú sạch sẽ, để tránh nhiễm khuẩn,nứt kẻ đầu vú.

          Khuyên sản phụ cho trẻ bú sớm để kích thích bài tiết sữa và làm cho tử cung co hồi tốt ( do phản xạ đầu vú, tuyến vú ).

          Nếu có hiện tượng tắc tia sữa,cần phải dùng mọi cách để thông ngay như: vắt sữa,hút sữa để đề phòng tắc tia sữa dẫn đến áp xe vú.

          Nếu có nứt kẻ đầu vú: ngừng cho bú, rửa sạch đầu vú, thấm khô , bôi glyceron borat 5%.

5.10 Tắm rửa cho sản phụ:

          Lau mình bằng nước ấm từ ngày thứ hai sau đẻ hoặc có thể tắm bằng cách dội nước, tránh tắm ở những nơi có gió lùa hoặc tắm bằng cách ngâm mình trong nước.

5.11 Chế độ ăn, mặc:

          Ăn phải đủ chất đạm, glucid,lipid, muối khoáng và các vitamin, mục đích để nuôi dưỡng cơ thể tốt đảm bảo đủ sữa cho con bú, chỉ nên kiêng các chất kích thích như rượu, chè, càphê..

          Quần áo mặc rộng rãi, sạch, không nên mặc quần áo quá chật.

5.12 Vấn đề giao hợp:

          Cần phải tránh trong thời kỳ hậu sản.